gia laiDiện tích: 15.536,9 km2 Dân số: 1.213.750 người (thống kê 2008) Mã vùng: 84 – 059 Tỉnh lỵ: Thành phố Pleiku. Thành phố: Pleiku Thành phố: An Khê, Ayun Pa. Các huyện: Đak Pơ, Đak Đoa, Chư Prông, Pah, Chư Sê, Đức Cơ, Ia Grai, Kbang, Krông Pa, Kông Chro, Mang Yang, Ia Pa, Phú Thiện, Pooh. Dân tộc: Việt (Kinh), Jrai Gia Lai có khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 21o-25oC. Khu vực phía Tây Trường Sơn có lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.200 – 2.500 mm, khu vực phía Đông Trường Sơn từ 1.200 – 1.750 mm.
Bản đồ hành chính Tỉnh Gia Lai
Vị trí địa lý-Địa lý và ranh giới hành chính Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở phía bắc Tây Nguyên, có độ cao trung bình 700-800 m so với mực nước biển. Với diện tích 15.536,92 km², tỉnh Gia Lai trải dài từ 12°58’20” đến 14°36’30” vĩ độ Bắc, từ 107°27’23” đến 108°54’40” kinh độ Đông. Gia Lai phía bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía nam giáp tỉnh Đắk Lắk, phía tây giáp Campuchia với 90 km đường biên giới quốc gia, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Khí hậu Gia Lai có khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Khu vực Tây Trường Sơn có lượng mưa trung bình từ 2.200 đến 2.500 mm, khu vực Đông Trường Sơn từ 1.200 đến 1.750 mm. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22-25ºC.
Cổng thành. Pleiku về đêm. Ảnh: Nguyên Giác
Vị trí và ranh giới hành chính Vùng đất tỉnh Gia Lai ngày nay là nơi cư trú lâu đời của các dân tộc Jrai, Bahnar có xu hướng sống thành làng. Trước khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ lên Tây Nguyên, các dân tộc Gia Lai đang ở giai đoạn cuối cùng của xã hội nguyên thủy, đang chuyển sang xã hội có giai cấp. Vùng đất tỉnh Gia Lai ngày nay là nơi cư trú lâu đời của các dân tộc Jrai, Bahnar có xu hướng sống thành làng. Trước khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ lên Tây Nguyên, các dân tộc Gia Lai đang ở giai đoạn cuối cùng của xã hội nguyên thủy, đang chuyển sang xã hội có giai cấp. Từ đầu những năm 40 của thế kỷ 19, các giáo sĩ người Pháp đã thâm nhập vào vùng dân cư của người Bahnar thuộc xã Hà Tây – huyện Chư Păh và xã Hà Đông – huyện Đak Đoa ngày nay để truyền đạo. Theo chân các giáo sĩ, thực dân Pháp ngày càng tiến sâu vào Bắc Tây Nguyên, gây ra tình trạng rối ren mới bằng chính sách chia để trị, cậy này đánh nọ, chia rẽ Kinh – Thượng và các dân tộc anh em. các đoàn thể trong tỉnh, trong khu vực với nhau. Từ cuối thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy cai trị ở Gia Lai. Sau nhiều lần thay đổi, sáp nhập, chia tách để tạo thành các đơn vị hành chính ở Tây Nguyên, ngày 24-5-1932, tỉnh Pleiku (gồm Đại lý Pleiku và Đại lý Cheo Reo) được thành lập theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tỉnh Pleiku có: Thành phố Pleiku (thành lập ngày 3-12-1929 theo Nghị định của Khâm sứ Trung Kỳ), huyện An Khê, huyện Pleikli, huyện Chư Ty và huyện Cheo Reo. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tỉnh được chính quyền cách mạng đổi tên thành Gia Lai. Tháng 6 năm 1946, thực dân Pháp tái chiếm Gia Lai và đổi tên thành tỉnh Pleiku. Từ năm 1946 đến năm 1954, tỉnh Pleiku nói riêng và Tây Nguyên nói chung nhiều lần chịu cảnh cai quản theo các văn bản của chính quyền thực dân và ngụy quyền. Về phía chính quyền cách mạng, trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tên tỉnh vẫn là Gia Lai, nhưng trong từng thời kỳ, tỉnh Gia Lai chịu sự chỉ đạo trực tiếp của các cơ quan ban ngành của các vùng miền. , các huyện trong tỉnh đã có nhiều thay đổi đôi khi cả tên gọi và địa giới hành chính. Đối với chính quyền Sài Gòn, mặc dù từ năm 1954 cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tên tỉnh vẫn gọi là Pleiku, nhưng diện mạo của tỉnh đã nhiều lần thay đổi. Dưới chính quyền cách mạng, từ năm 1954 đến năm 1975, tỉnh vẫn giữ tên gọi là Gia Lai, nhưng địa giới hành chính của tỉnh trải qua nhiều thay đổi trong các giai đoạn lịch sử. Ngày 20-9-1975, theo Nghị quyết của Bộ Chính trị, hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum hợp nhất thành một tỉnh gọi là Gia Lai – Kon Tum. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, theo Nghị quyết của kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII, Gia Lai – Kon Tum được chia thành 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Từ khi chia tỉnh, Gia Lai tiếp tục chia tách để thành lập một số huyện mới. Đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã, thành phố: 17, gồm 1 thành phố trực thuộc, 2 thị xã và 14 huyện. Đơn vị hành chính cấp xã, huyện, thị xã: 222, gồm 24 huyện, 12 thị xã và 186 thị trấn. Điều kiện xã hộiDân số Dân số tỉnh Gia Lai là 1.213.750 người (thống kê năm 2008) gồm 34 cộng đồng dân tộc cùng chung sống. Trong đó người Việt (Kinh) chiếm 52% dân số. Còn lại là các dân tộc Jrai (33,5%), Bahnar (13,7%), Giẻ-triêng, Xơđan, Thái, Mường.
Lễ hội Làng – Mừng lúa mới của dân tộc Bahna, Kông Chro, Gia Lai. Ảnh Nguyễn Giác
Có thể chia cư dân Gia Lai thành hai bộ phận: bộ phận cư dân bản địa sinh sống lâu đời ở Gia Lai gồm các dân tộc Jrai và Bahnar, bộ phận dân cư mới đến bao gồm người Việt và các dân tộc khác. Những người Việt đầu tiên đến sinh sống ở vùng An Khê (đông bắc tỉnh) từ cuối thế kỷ XVII. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XIX, người Việt định cư ở Gia Lai còn rất hiếm và chỉ tập trung ở vùng An Khê. Thời Pháp thuộc, những năm 1923 – 1945, chính quyền thực dân đã đưa một số người Việt từ đồng bằng duyên hải miền Trung đến làm thuê tại các đồn điền chè, cà phê và các công trường làm đường trên cả nước. Đường 19 và 14.
Thác Phú Cường, Chư Sê, Gia Lai. Ảnh: Nguyên Giác
Từ năm 1954 trở đi, dân số người Việt ở Gia Lai tăng nhanh do nhu cầu tuyển dụng công chức, viên chức chính quyền Sài Gòn, người miền Bắc di cư năm 1954, chính sách dồn người miền Trung vào điền trang. Sau khi đất nước thống nhất (1975), Đảng và Nhà nước ta đã điều chuyển một lượng lớn người Kinh từ miền Bắc và miền Trung vào xây dựng kinh tế – quốc phòng và điều động bổ sung cán bộ cho Tây Nguyên nói chung và Gia Lai nói riêng, khiến số người Kinh ở Gia Lai tăng nhanh. Dân tộc Jrai (Jrai, Jarai, Gia Rai) là một trong 5 dân tộc (Jrai, Êđê, Chăm, Raglai, Chu Ru) của Malaya – Đa Đảo (Malaya – Polynesia) hiện đang sinh sống ở khu vực phía nam của Trường Sơn. và đồng bằng duyên hải miền Trung. Vùng dân cư từ phía Nam tỉnh Kon Tum đến phía Bắc tỉnh Đắk Lắk (theo hướng Bắc – Nam) và từ phía Tây Bắc tỉnh Phú Yên đến khu vực biên giới giáp Campuchia (theo hướng Đông – Tây). Ở vùng dân cư Gia Lai này là nơi tập trung đông nhất của người Jrai. Địa bàn dân cư chủ yếu là cao nguyên Pleiku phía tây (thuộc các huyện Chư Păh, Ia Grai, Đức Cơ, Chư Prông, Chư Sê, TP. Pleiku) và vùng trũng Cheo Reo – Phú Túc phía đông nam tỉnh (thuộc thành phố). xã Ayun Pa và Phú Thiện, huyện Ia Pa, Krông Pa). Với thành phần dân cư chiếm ưu thế trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, ý thức tộc người và lãnh thổ tộc người khá rõ nét, sinh sống trên địa bàn các trung tâm giao thông huyết mạch nối Bắc Tây Nguyên. Với các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, người Jrai ở Gia Lai có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị và an ninh – quốc phòng. Đây là bộ phận dân cư có nhiều đóng góp quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh. Trong những năm kháng chiến giải phóng dân tộc cũng như trong thời kỳ xây dựng đất nước, những cái tên như thầy giáo Nay Der, anh hùng Kpa Ơ, anh hùng Kpui Thu… đã đi vào lòng người Tây Nguyên và cả nước. quốc gia.
Tháng 3 – Tây Nguyên. Ảnh: Gia Lai
Người Bahnar (Bahnar, Ba Na) là một trong những dân tộc thuộc ngữ hệ Môn – Khmer. Khu dân cư chủ yếu phía Nam tỉnh Kon Tum, phía Bắc và phía Đông tỉnh Gia Lai. Ngoài ra còn một số người Bahnar sống rải rác ở các huyện phía Tây của tỉnh Bình Định và Phú Yên. Tại tỉnh Gia Lai, địa bàn cư trú tập trung của người Bahnar là phía đông cao nguyên Pleiku (thuộc các huyện Mang Yang, Đak Đoa, phía bắc huyện Chư Pah), cao nguyên Kon Khương (thuộc huyện Kbang), thấp An Khê. -Khu vực mở rộng (thuộc huyện Đak Pơ và Kông Chro, phía Đông Bắc thành phố An Khê). Người Ba-na ở Gia Lai có truyền thống cách mạng lâu đời. Trong những năm kháng chiến giải phóng dân tộc, Tỉnh ủy Gia Lai đã chọn khu dân cư của người Bahnar để xây dựng vùng căn cứ cách mạng nên ảnh hưởng của cách mạng đến với đồng bào Bahnar từ rất sớm. Anh hùng Núp, anh hùng Chăn Cừu của dân tộc Bahnar không chỉ là niềm tự hào của đồng bào Tây Nguyên, mà còn là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam. Ngoài các dân tộc nói trên, tính đến năm 2005, Gia Lai có 915 người Hoa có tổ tiên đã có mặt tại Gia Lai từ những ngày đầu thành lập thành phố. Từ năm 1954 đến nay, Gia Lai cũng đã hai đợt tiếp nhận một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số từ miền Bắc vào. Đợt thứ nhất vào năm 1954 và đợt thứ hai trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc (cuối những năm 70 của thế kỷ trước). Tính đến cuối năm 2006, Gia Lai có 23.770 người là người dân tộc thiểu số không bản địa, chiếm 2,04% dân số toàn tỉnh.
Nguồn: LỊCH SỬ TỈNH GIA LAI 1945 – 2005
Hy vọng thông qua bài viết Giới thiệu chung về tỉnh Gia Lai Cakhia TV trang web trực tiếp bóng đá miễn phí sẽ giúp ích được quý bạn đọc.