Một trong những cuộc khởi nghĩa quan trọng nhất trong lịch sử dân tộc mà người Việt Nam nào cũng biết đó là Khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Đây là hai nữ anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta. Tinh thần Hai Bà Trưng thể hiện trong trận đánh lịch sử đã góp phần trui rèn, tôi luyện ý chí và sức sống quật cường của một dân tộc anh hùng. Trong bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa vào năm nào? Ở đâu và như thế nào?
Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua điện thoại: 1900.6568
1. Tiểu sử Hai Bà Trưng:
Hai Bà Trưng cũng là cái tên mà người Việt Nam chúng ta thường dùng khi nhắc đến hai vị nữ anh hùng dân tộc đó là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Hai Bà Trưng là chị em song sinh và con gái của Lạc tướng Lạc Mê Linh, Hai Bà Trưng thuộc dòng dõi Hùng Vương. Mẹ của Hai Bà Trưng là bà Man Thiện, quê ở làng Nam Nguyên – Ba Vì – Sơn Tây – Hà Nội.
Mẹ Hai Bà Trưng là bà Man Thiện, chẳng may chồng mất sớm, bà Man Thiện chỉ nuôi hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị. Bà dạy hai con trồng dâu nuôi tằm. Không chỉ vậy, Ms. Man Thiện cũng nuôi dưỡng tinh thần yêu nước của hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhiên, chú trọng rèn luyện sức khỏe và võ nghệ.
Nhờ vậy, Trưng Trắc lớn lên trở thành một người phụ nữ đảm đang, dũng cảm và thông minh. Bà lấy chồng là Thi Sách. Đây là con trai của thiếu tướng Chu Diên. Cuộc hôn nhân này khiến thế lực của nhà Trưng Trắc ngày càng hùng mạnh. Vì thế, Tô Định, một thứ sử của nhà Đông Hán, sợ ảnh hưởng của gia đình Trưng Trắc, nên đã tìm cách giết Thi Sách.
Trước chính sách áp bức, bóc lột của nhà Đông Hán với toàn bộ nhân dân Âu Lạc và trước những hành động bạo ngược của Tô Định cùng mối hận gia đình, Trưng Trắc càng từ đó có thêm quyết tâm tiến thân. Khởi nghĩa lật đổ chính quyền thống trị, áp bức của nhà Đông Hán, giành lại độc lập cho đất nước.
2. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa vào năm nào và ở đâu?
Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở cửa sông Hát.
Mùa xuân, tháng 3 năm Canh Tý, tức là năm 40, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị cùng các sĩ phu khắp thiên hạ kéo về Mê Linh hội quân, tế lễ. là nơi khởi nghĩa Hai Bà. Thân cây.
Hai Bà Trưng đánh giặc Đông Hán. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng cũng là cuộc khởi nghĩa đầu tiên chống Bắc thuộc, đánh đuổi quân Đông Hán ra khỏi Giao Chỉ.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, người phất cờ khởi nghĩa là phụ nữ, cho rằng người lập quốc cũng là phụ nữ. Và, không một dân tộc nào, không một đất nước nào có được vinh quang vĩ đại như vậy.
3. Mục đích của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng:
Hai Bà Trưng khởi nghĩa để đền nợ nước, trả thù nhà. Theo Thiên Nam Thực Lục, một truyện dân gian cuối thế kỷ XVII, trên một chiếc bệ, trước ba vị quan quân, Hai Bà Trưng đã nêu rõ mục đích của cuộc khởi nghĩa như sau:
“Hãy rửa sạch đất đai của kẻ thù,
Hải xin trả lại nghiệp xưa họ Hùng,
Cha ơi, kẻo con chọc giận chồng con,
Bốn hãy làm tròn nghĩa vụ công ích này”.
Trước khi mắc nợ giết chồng, hai chị em Hai Bà Trưng vẫn căm hận cuộc đời bạo ngược của thái thú nhà Đông Hán là Tô Định. Chính sách chuyên chế này thực chất là chính sách đàn áp, bóc lột của nhà Đông Hán đối với toàn thể nhân dân Âu Lạc, từ lạc tướng cho đến nô lệ.
Hành động bạo ngược của họ Đinh không làm cho Trưng Trắc nản lòng, sợ hãi mà ngược lại, bà Trưng Trắc càng thêm quyết tâm khởi nghĩa lật đổ ách thống trị, áp bức của nhà Đông Hán. do đó khôi phục nền độc lập, trả nợ nước, trả thù nhà”.
4. Nguyên nhân khởi nghĩa Hai Bà Trưng:
Nguyên nhân trực tiếp của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, như chúng tôi đã trình bày ở trên, là do sự cai trị hà khắc của chính quyền nhà Hán ở phương bắc, cùng với sự áp bức, bóc lột và áp bức. đàn áp nhân dân dã man, dã man cùng với chính sách đồng hóa người Việt vào Giao Chỉ. Quan Tô Định vô nhân đạo tham lam, tàn bạo, tăng dịch, thuế má từ đó khiến bao người dân phải rơi vào cảnh đời lầm than. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho mâu thuẫn giữa nhân dân và chủ thể là quan lại người Việt với sự thống trị của nhà Hán ngày càng trở nên gay gắt.
Cùng với đó, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng còn có một nguyên nhân gián tiếp là do Thi Sách, chồng của Trưng Trắc, bị Thái thú Tô Định giết để dập tắt ý đồ chống đối của các thủ lĩnh nhân dân. Tuy nhiên, hành động này của tướng Tô Định đã thất bại khi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng nổ ra và trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chính sách tàn bạo do Thái thú Tô Định ban hành lúc bấy giờ thực chất là chính sách áp bức, bóc lột của nhà Đông Hán đối với toàn thể nhân dân Âu Lạc.
5. Diễn biến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng:
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng được chia thành hai thời kỳ. Như sau:
– Lần thứ nhất: Năm 40 SCN:
Nghĩa quân Hai Bà Trưng từ Mê Linh xuôi dốc theo lệnh các quan đi đánh Luy Lâu. Luy Lâu còn là kinh đô của nhà Đông Hán ở Giao Chỉ. Do nhân dân vô cùng căm phẫn chế độ áp bức, bóc lột của nhà Đông Hán nên khi chính quyền Đông Hán bị quân khởi nghĩa Hai Bà Trưng lật đổ ở Luy Lâu, nhân dân quận Cửu Chân và quận Nhật Nam cũng tham gia đấu tranh. .
Nghĩa quân của Hai Bà Trưng được nhân dân khắp nơi ủng hộ nên nghĩa quân Hai Bà Trưng đi đến đâu chính quyền và quân đội nhà Đông Hán tan rã. Trước sức mạnh áp đảo của quân khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Tô Định, Thứ Sử và Thái tử nhà Đông Hán càng thêm khiếp sợ, cùng nhau trốn sang Trung Quốc.
Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, các cuộc khởi nghĩa ở địa phương không diễn ra nhỏ lẻ mà thống nhất thành một phong trào khởi nghĩa rất quy mô của quần chúng khắp nơi. Trong một thời gian ngắn, nghĩa quân Hai Bà Trưng đã giải phóng được 65 huyện, thành. Cuộc khởi nghĩa đã thành công và khởi nghĩa Hai Bà Trưng giành độc lập có quy mô cả nước. Sau đó, Trưng Trắc lên ngôi vua, hiệu là Trưng Vương, bà đóng đô ở Mê Linh.
– Lần thứ hai: 42 SCN:
Năm 42, nhà Hán tăng thêm viện binh, Mã Viện cũng là người cầm quân tiến hành cuộc xâm lược này. Quân gồm: 20 vạn quân tinh nhuệ, 2 vạn thuyền và nhiều người. Quân Mã Viện tấn công quân ta ở Hợp Phố, quân Hợp Phố tuy anh dũng chống trả nhưng vẫn phải chịu thất bại trước quân Hán.
Sau khi quân của Mã Viện chiếm được Hợp Phố, Mã Viện chia quân làm 2 đạo tiến về Lục Đầu và gặp nhau ở Lãng Bạc, cụ thể như sau:
+ Lục quân: đi theo đường biển, lẻn qua Ma Môn đổ bộ vào Lục Đầu.
+ Thủy binh: từ Hải Môn vượt biển đánh thẳng vào sông Bạch Đằng, rồi từ Thái Bình đi vào Lục Đầu.
Sau khi Hai Bà Trưng nhận được tin báo, Hai Bà Trưng rút quân khỏi Mê Linh về đánh giặc ở Lãng Bạc. Quân ta giữ được Cổ Loa và Mê Linh, nhưng quân của Mã Viện vẫn tiếp tục truy kích, buộc quân ta phải rút về Cẩm Khê.
Tháng 3 năm 43, Hai Bà Trưng mất ở Cẩm Khê. Cuộc kháng chiến không kết thúc sau đó mà kéo dài đến ngày 43 tháng 11 trước khi tàn lụi.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã góp phần quan trọng vào việc giành lại nền độc lập cho dân tộc, mở ra một trang mới trong lịch sử của cả dân tộc ta. Trong và sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, ta thấy được tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu và quyết thắng của toàn dân ta trong việc giành lại độc lập, chủ quyền bờ cõi. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng cũng góp phần quan trọng khẳng định vai trò của phụ nữ Việt Nam kiên cường, mạnh mẽ. Không những vậy, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng có tác dụng như một ngọn hải đăng soi đường, định hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sau này.
Hy vọng thông qua bài viết Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa năm nào? Ở đâu và như thế nào? Cakhia TV trang web trực tiếp bóng đá miễn phí sẽ giúp ích được quý bạn đọc.